Kiến thức!Tại sao máy nén lạnh bán kín thiếu dầu?

Máy nén là một cỗ máy phức tạp hoạt động ở tốc độ cao. Đảm bảo bôi trơn đủ cho các bộ phận chuyển động như trục khuỷu, ổ trục, thanh nối, piston là yêu cầu cơ bản để duy trì hoạt động bình thường của máy. Do đó, các nhà sản xuất máy nén chỉ định việc sử dụng loại dầu bôi trơn cụ thể và kiểm tra thường xuyên mức dầu và màu sắc.

Thiếu dầu là một trong những lỗi máy nén dễ nhận biết. Khi máy nén thiếu dầu, có rất ít hoặc thậm chí không có dầu bôi trơn trong cacte.

Máy nén là một loại bơm khí đặc biệt và một lượng nhỏ dầu bôi trơn (gọi là dầu mang hoặc dầu mang) được mang theo cùng với khí làm lạnh được thải ra. Việc nhiễm dầu trong máy nén là không thể tránh khỏi, mặc dù tốc độ xảy ra có thể khác nhau.

Đối với máy nén piston bán kín, khí xả thường chứa khoảng 2-3% dầu bôi trơn, trong khi đối với máy nén cuộn là khoảng 0,5-1%. Đối với máy nén 6 xi-lanh có dung tích 100 m3/giờ và dung tích dầu cacte là 6 lít, lượng dầu mang theo 3% có nghĩa là tốc độ mang dầu xấp xỉ 0,3-0,8 lít mỗi phút hoặc thời gian vận hành không quay trở lại trong máy nén khoảng mười phút. Nếu dầu bôi trơn thải ra từ máy nén không quay trở lại thì máy nén sẽ thiếu dầu.

Có hai cách để máy nén hồi dầu: qua bộ tách dầu hoặc qua ống hút.
Một bộ tách dầu được lắp đặt trong đường xả của máy nén và thường có thể tách 50-95% lượng dầu mang theo. Phương pháp này mang lại khả năng hồi dầu tốt và nhanh chóng, giảm đáng kể lượng dầu vào hệ thống và kéo dài thời gian vận hành không hồi dầu một cách hiệu quả.

Trong các hệ thống làm lạnh có đường ống dài, hệ thống làm đá chứa đầy chất lỏng và thiết bị đông khô hoạt động ở nhiệt độ rất thấp, không có gì lạ khi máy nén hoạt động trong vài phút hoặc thậm chí hàng chục phút mà không hồi dầu hoặc với rất ít dầu. hồi dầu. Các hệ thống được thiết kế kém có thể gặp phải vấn đề với áp suất dầu thấp trong máy nén, dẫn đến tắt máy. Việc lắp đặt bộ tách dầu hiệu quả trong các hệ thống làm lạnh như vậy có thể kéo dài đáng kể thời gian vận hành không quay trở lại và đảm bảo máy nén vượt qua giai đoạn quan trọng một cách an toàn sau khi khởi động mà không cần hồi dầu.

Dầu không được tách ra sẽ đi vào hệ thống và tuần hoàn cùng chất làm lạnh trong các đường ống, tạo thành vòng tuần hoàn dầu. Một mặt, do nhiệt độ thấp và độ hòa tan thấp nên một phần dầu bôi trơn tách ra khỏi chất làm lạnh. Mặt khác, ở nhiệt độ thấp, độ nhớt của dầu tách ra tăng lên khiến dầu khó chảy và bám vào thành trong của đường ống. Nhiệt độ bay hơi càng thấp thì việc hồi dầu càng khó khăn hơn. Điều này đòi hỏi thiết kế và xây dựng phù hợp thiết bị bay hơi và ống hút để tạo điều kiện thuận lợi cho việc hồi dầu. Một thực tế phổ biến là sử dụng thiết kế đường ống hướng xuống và đảm bảo tốc độ dòng khí cao.

Trong các ứng dụng thực tế, vấn đề hồi dầu do thiết kế thiết bị bay hơi và ống hút không phù hợp không phải là hiếm. Đối với hệ thống R22 và R404A, việc hồi dầu trong thiết bị bay hơi ngập nước tương đối khó khăn và thiết kế đường ống hồi dầu của hệ thống phải được xem xét cẩn thận. Sử dụng bộ tách dầu hiệu suất cao có thể làm giảm đáng kể lượng dầu đi vào đường ống của hệ thống và kéo dài thời gian không hồi dầu sau khi khởi động một cách hiệu quả.

Khi máy nén được đặt cao hơn thiết bị bay hơi, cần phải uốn cong theo chiều dọc trong ống hút để hồi dầu. Chỗ uốn hồi dầu phải càng nhỏ gọn càng tốt để giảm thiểu việc giữ dầu. Khoảng cách giữa các khúc cua hồi dầu phải phù hợp, nếu có nhiều khúc cua hồi dầu thì nên bổ sung một ít dầu bôi trơn.

Đường ống hồi dầu trong hệ thống tải thay đổi cũng cần được thiết kế cẩn thận. Khi tải giảm, tốc độ hút giảm, không có lợi cho việc hồi dầu. Để đảm bảo hồi dầu ở mức tải thấp, có thể sử dụng ống đôi thẳng đứng.

Việc khởi động máy nén thường xuyên không có lợi cho việc hồi dầu. Do thời gian hoạt động liên tục của máy nén ngắn nên không có đủ thời gian để hình thành luồng khí tốc độ cao ổn định trong ống hút và chỉ có thể để lại dầu bôi trơn trong đường ống. Nếu lượng dầu hồi về nhỏ hơn lượng dầu mang theo thì máy nén sẽ bị thiếu dầu. Thời gian vận hành càng ngắn, đường ống càng dài và hệ thống càng phức tạp thì vấn đề hồi dầu càng nổi bật.

Trong quá trình rã đông, nhiệt độ của thiết bị bay hơi tăng lên và độ nhớt của dầu bôi trơn giảm, khiến nó dễ chảy hơn. Sau chu kỳ rã đông, tốc độ dòng môi chất lạnh cao, dầu bôi trơn được giữ lại sẽ cô đặc và quay trở lại máy nén. Vì vậy, tần suất và thời lượng của chu trình rã đông phải được thiết lập cẩn thận để tránh biến động lớn, thậm chí là sốc dầu. Khi rò rỉ chất làm lạnh đáng kể, tốc độ hút sẽ giảm và nếu tốc độ quá thấp, dầu bôi trơn sẽ đọng lại trong ống hút và không thể nhanh chóng quay trở lại máy nén. Việc khởi động chất lỏng do sự di chuyển của chất làm lạnh cũng có thể gây khó khăn cho việc hồi dầu bên trong, nhưng thường chỉ diễn ra trong thời gian ngắn, nhiều nhất là vài chục phút.

Share this post